Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế

Phủ đệ hiện là nét Huế nhất của Huế - một Huế quý tộc, hào hoa mà dân dã; thanh cao, tinh tế mà bình dị. Huế của quá vãng rêu phong mà gần gũi

Chỉ còn Huế giữ được phủ đệ

Kim Long gái đẹp mỹ miều/Trẫm thương trẫm nhớ trẫm liều trẫm đi. Câu ca dao xưa như nói về địa danh Kim Long nổi tiếng với nhiều phụ nữ đẹp. Đó là vùng đất nằm phía Tây và cách kinh thành Huế không xa, cạnh sông Hương thơ mộng, khá màu mỡ, thiên nhiên trong lành.

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 1.

Một góc phủ Tuy Lý Vương ngày giáp Tết. Ảnh: Quang Tám

Nếu bạn đặt chân lên vùng Kim Long, qua chùa Thiên Mụ thì đừng quên ghé phủ Ấn Quang, Đức Quốc Công, Cẩm Xuyên quận vương… Nếu xuôi về "Đây thôn Vĩ Dạ" của nhà thơ Hàn Mặc Tử thì bạn hãy nhớ ở đó có nhiều phủ đệ như phủ Diên Khánh vương, Định Viễn quận vương, Đông Cung nguyên soái, Thiệu Hóa quận vương, Tuy Biên quận vương, Tuy Lý vương…

Vùng Chi Lăng - Gia Hội có phủ An Thành vương, Cẩm Giàng quận công, Gia Hưng vương (cha), Gia Hưng vương (con), Hoài Đức quận vương, Hoằng Hóa quận vương, Hòa Thịnh vương, Lạc Biên quận công… Phía Nam kinh thành Huế, ở vùng An Cựu, Phủ Cam suốt đến sông Như Ý thì có các phủ đệ của An Thường công chúa, An Hóa Công, Hàm quận công, Hân Vinh phủ, Kiến Hoài quận công, Lạc Hóa quận công, Mỹ Hóa công, Tùng Thiện vương… Vùng ven đô còn có phủ Huấn Vũ hầu (Thủy Xuân), Lãng quận công (Thủy Biều), Phong quận công (Thủy An), Uy Quốc công (Thủy Thanh) Tương An quận vương (Thủy Biều)…

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 2.

Một phủ đệ tuổi đời khá cao tại Huế. Ảnh: Phan Thanh Hải

Hơn ngàn năm, chế độ quân chủ phong kiến từng xây dựng, kiến tạo nhiều kinh đô, song đến nay chỉ có Huế là còn giữ được phủ đệ. Những điền trang thái ấp to lớn ở Thái Bình, Hải Hưng thời Trần đến nay hầu như không còn dấu vết. Những phủ đệ, dinh thự tinh xảo rực rỡ thời Lê nay cũng chỉ còn phảng phất hình bóng trên vài dòng sử liệu.

Duy ở Huế, phủ đệ vẫn hiện hữu dù trải qua bao thăng trầm lịch sử. Đến đầu thế kỷ XXI, Huế vẫn còn giữ được hơn 50 phủ đệ. Theo nghiên cứu điều tra của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, vào cuối thế kỷ XIX, tại Huế có trên 85 phủ đệ, đến năm 1993 vẫn còn trên 30 phủ đệ có giá trị và được đề nghị lập hồ sơ bảo vệ. Năm 2001, trong đề tài "Những phủ đệ ở Huế thời các vua Nguyễn" cấp bộ, tác giả Lê Duy Sơn - Trường ĐH Khoa học Huế - đã thống kê được 53 phủ đệ trong phạm vi TP Huế và các vùng phụ cận.

Phủ đệ ở Huế có từ bao giờ?

Từ năm 1636, ngoài kinh đô Thăng Long trên đất Bắc của vua Lê, chúa Trịnh thì còn một kinh đô khác của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, được xây dựng ở vùng Kim Long bên bờ sông Hương. Ngay từ hồi đó, mô hình nhà vườn gắn liền với dinh thự quan lại đã xuất hiện.

Năm 1687, kinh đô Đàng Trong được chuyển về Phú Xuân và ngày càng hoàn thiện. Trong "Phủ biên tạp lục" năm 1776, Lê Quý Đôn đã hết lời ca ngợi kinh đô của họ Nguyễn. Ông mô tả: "Các phủ đệ nhà vườn của bậc công hầu quyền quý thì chia bày ở hai bờ phía thượng lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu phủ Cam".

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 3.

Hệ thống nhà gỗ ở một phủ đệ. Ảnh: Phan Thanh Hải.

Đầu thế kỷ XIX, ngay trong việc quy hoạch xây dựng Huế với tư cách là kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, các vua Gia Long, Minh Mạng đã dành cho hệ thống phủ đệ một vị trí xứng đáng. Hầu hết các phủ đệ của hoàng tử, công chúa đều nằm trong kinh thành. Sau khi họ đăng quang, phủ đệ cũ phần lớn đều bị triệt giải đem đi xây dựng các khu vườn ngự uyển, hành cung ở trong, ngoài kinh thành. Về sau, khi được mở rộng ra ngoài kinh thành, phủ đệ đều bố trí dọc hai bờ sông Hương, sông An Cựu… Có thể nói, những chỗ này đều màu mỡ và đẹp nhất chốn kinh kỳ.

Các vua Nguyễn đầu triều đều đông con: Gia Long có 64 hoàng tử, công chúa; Minh Mạng 142; Thiệu Trị 78… Khi trưởng thành, tất cả đều cần được ban cấp phủ đệ để ăn ở, sinh hoạt, thờ tự. Vậy nên, đến cuối thế kỷ XIX, chắc hẳn đã có hàng trăm phủ đệ ở trong và ngoài kinh thành Huế. Đó là chưa kể hàng chục phủ đệ, dinh thự của thân vương, đại thần với quy mô không hề kém cạnh.

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 4.

Đường vào phủ thờ công chúa Ngọc Sơn. Ảnh: Phan Thanh Hải

Một hệ thống kiến trúc thượng lưu với màu sắc riêng đã xuất hiện hoàn chỉnh. Nhưng phải thấy rằng, phủ đệ của Huế không phải là một loại hình kiến trúc mới mẽ. Nếu tính từ năm 1636, nó đã có hơn 200 năm để hoàn chỉnh về kỹ thuật, mỹ thuật, đặc biệt là chiều sâu văn hóa.

Giá trị đặc biệt

Chỉ căn cứ hiện trạng những phủ đệ còn lại ở Huế thì không dễ hình dung diện mạo đích thực của chúng khi thịnh thời. Tuy nhiên, với những gì còn lại, cộng với việc khảo sát, nghiên cứu các nguồn sử liệu thì có thể hiểu được giá trị đặc biệt về kiến trúc, mỹ thuật, văn hóa của phủ đệ.

Thời Gia Long, quy mô phủ đệ đã được quy định cụ thể: "Phàm dựng nhà phủ, hoàng tử, công chúa thì chính đường 5 gian 2 chái, tiền đường 7 gian. Chung quanh mái chồng, hợp thành một tòa, lợp ngói âm dương, 4 bề xung quanh bao bằng tường gạch, mặt trước mặt sau mở một cửa vào, trong cửa xây bình phong".

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 5.

Bức bình phong trước phủ Tuy Lý Vương. Ảnh: Quang Tám

Thời vua Minh Mạng, số lượng phủ đệ tăng vọt. Năm 1822, vua quy định chặt chẽ hơn về quy mô kiến trúc phủ đệ - bị thu hẹp, nhất là phủ chính, để không cạnh tranh với cung điện; công trình lớn nhất không được làm đến 5 gian. "Phàm làm nhà hoàng đệ, hoàng tử, trưởng công chúa, chính đường và tiền đường đều 3 gian 2 chái lợp ngói âm dương; các khoản hành lang, cánh gà, nhà bếp chiếu theo đó mà làm" - quy định nêu rõ.

Năm 1839, có lẽ để khống chế việc phủ đệ phát triển theo chiều dọc (làm phủ chính điệp ốc nhiều tầng) và trang trí quá cầu kỳ, triều đình lại quy định: "Các hoàng tử, hoàng thân ở riêng không được làm nhà 3 nóc, lâu đài cùng bài trí".

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 6.

Bể cạn trước một phủ đệ. Ảnh: Phan Thanh Hải

Thậm chí, sang thời Thiệu Trị, nhà Nguyễn còn quy định giảm hẳn quy mô phủ đệ, không cho làm nhà kép: "Việc xây dựng phủ đệ cho hoàng tử, thân công, hoàng đệ, thái trưởng công chúa thì giảm bớt 1 nhà tiền đường, chỉ còn chính đường 3 gian 2 chái, có tường bao chung quanh. Trước sau mở một cổng vào, chu vi 64 trượng (271,36 m), tường cao 5 thước 5 tấc. Còn các nhà khác thì chiếu theo đó mà làm". Triều đình còn cấp cho mỗi hoàng thân, hoàng tử 300 quan tiền nếu tự xây dựng phủ đệ.

Như vậy, ban đầu phủ đệ có quy mô khá lớn, kiến trúc chính làm kiểu nhà kép "trùng thiềm điệp ốc" và có thể lên tới 7 gian - không hề kém cạnh cung điện nhà vua. Từ thời Minh Mạng trở đi mới khống chế phủ đệ còn 3 gian 2 chái và nhà kép không được làm đến 3 lớp. Thời Thiệu Trị thì khống chế chặt chẽ hơn nữa, chỉ cho phủ chính làm dạng nhà đơn 3 gian 2 chái, không được làm nhà kép. Quy mô không gian mỗi phủ cũng giới hạn trong chu vi 271 m với diện tích ước tính khoảng một mẫu (5.000 m2), còn các phủ cũ thì diện tích vài mẫu là thường.

Mỗi phủ đệ thực sự là một không gian khép kín, là thế giới riêng của ông hoàng, bà chúa. Phủ đệ bao giờ cũng có vòng tường thành bao quanh xây bằng gạch đá, độ cao thường hơn 2 m, đủ để ngăn chặn sự xâm nhập từ bên ngoài cùng ánh mắt tò mò của thiên hạ.

Cổng chính phía trước có hình thức khá phong phú, kiểu tam quan xây gạch có cổ lâu bề thế, kiểu vòm nguyệt cổ điển 1 gian đơn giản mà tinh tế, kiểu cổng gỗ xinh xắn nhẹ nhàng. Cổng sau thì phổ biến là kiểu cửa vòm nguyệt xây gạch. Sau cổng chính là bình phong, bể cạn với hình thức rất phong phú. Bình phong thường xây gạch, kiểu cuốn thư hay kiểu bức tường chữ nhật vát góc, đắp nổi sành sứ các mô típ cung đình cổ điển, phổ biến nhất là long mã. Người Huế, nhất là tầng lớp thượng lưu, đặc biệt thích long mã - vừa có nét uy phong của rồng vừa có sự phóng túng tự do của ngựa. Có lẽ long mã cũng chính là hình tượng đặc trưng của quý tộc Huế, đậm chất cung đình mà vẫn gần gũi dân gian.

Vén màn “bí mật” phủ đệ xứ Huế- Ảnh 7.

Một bức bình phong trước phủ đệ. Ảnh: Phan Thanh Hải.

Bể cạn, non bộ đặt sau hay trước bình phong ngoài chức năng về phong thủy còn là tác phẩm nghệ thuật. Non bộ trong phủ đệ Huế cũng là nơi bảo tồn nghệ thuật xếp đá kiểu Huế nguyên thủy - rất nhẹ nhàng tinh tế, khác xa vẻ hào nhoáng rườm rà của kiểu non bộ Nam Á truyền bá vào Việt Nam đầu thập niên 1960.

Tiếp đến là tòa kiến trúc chính của phủ đệ, xưa là nơi ở, nay là nơi thờ tự chủ nhân nên được gọi chung là từ đường. Phần lớn phủ chính còn lại ở Huế đều là kiến trúc gỗ, kiểu nhà rường 3 gian 2 chái, song cũng còn những tòa nhà kép kiểu "trùng thiềm điệp ốc" khá đồ sộ. Phủ từ Đức quốc công Phạm Đăng Hưng (thân sinh Thái hậu Từ Dũ, nhạc gia của vua Thiệu Trị) tại Kim Long không chỉ là một tòa kiến trúc kép khá lớn mà ở tiền đường còn có bộ vì kiểu giả thủ đẹp không kém gì cung điện. Phủ đường của một hoàng tử thời Gia Long (năm 1953 được mua lại để dựng thành tòa Hưng Tổ Miếu trong Hoàng thành) cũng có bộ vì giả thủ tuyệt khéo.

Lối kiến trúc nhà rường cao cấp

Kiến trúc phủ đệ chính là bước chuyển tiếp giữa kiến trúc cung đình và kiến trúc dân gian truyền thống Huế. Phủ đệ cũng là nhà rường, nhưng là nhà rường cao cấp.

Nhà rường ấy thường đặt trên nền cao, bó vỉa bằng đá thanh hoặc gạch vồ, nền lát gạch Bát Tràng (sau là gạch tây, xi măng); bộ khung làm bằng gỗ kiền kiền hoặc mít nài; kết cấu bộ vì kiểu kẻ truyền, liên kết nhau bằng xuyên, trến; hệ thống liên ba, kèo hiên, đố bản đều trang trí tỉ mỉ, tinh tế bằng cách chạm khắc theo các mô típ truyền thống. Hệ khung mái vững chắc để chịu đựng được hàng chục lớp ngói âm dương, ngói liệt; bờ nóc, bờ mái thường được trang trí đắp nổi như cung điện nhưng giảm sự cầu kỳ và quy mô thể hiện.

Không gian bố trí bên trong phủ từ cũng gần như từ đường hay nhà ở dân gian vùng Huế: Có phần chính giữa để thờ tự Đức Phật và tổ tiên; có không gian ngoài để tiếp khách; có đông phòng, tây phòng dành cho chủ nhân và gia quyến; có cả cái tra (rầm thượng) để cất giữ đồ đạc, của cải…

Ngoài phủ chính, nhiều phủ đệ còn có nhà ngang, nhà bếp, thậm chí còn có nhà tả - hữu vu hai bên. Đó là những không gian dành cho sinh hoạt hằng ngày, tiếp bạn bè, tổ chức sinh hoạt văn hóa. Tại một số phủ đệ lớn như phủ Tuy Lý Vương, phủ Tùng Thiện Vương, phía sau tòa chính còn có nhà hậu để thờ tự thân phụ, thân mẫu.